Tác phẩm âm nhạc là một trong những đối tượng được bảo hộ quyền tác giả. Do đó khi sử dụng tác phẩm cần phải xin phép tác giả và trả tiền nhuận bút, thù lao cho tác giả. Liên quan đến vấn đề bản quyền, một bộ phận không nhỏ tổ chức cá nhân hay bản thân nhiều nghệ sĩ vẫn chưa thực sự nắm vững những quy định có liên quan về việc bảo vệ tác phẩm âm nhạc, dẫn đến nhiều rủi…
Tác phẩm âm nhạc là một trong những đối tượng được bảo hộ quyền tác giả. Do đó khi sử dụng tác phẩm cần phải xin phép tác giả và trả tiền nhuận bút, thù lao cho tác giả. Liên quan đến vấn đề bản quyền, một bộ phận không nhỏ tổ chức cá nhân hay bản thân nhiều nghệ sĩ vẫn chưa thực sự nắm vững những quy định có liên quan về việc bảo vệ tác phẩm âm nhạc, dẫn đến nhiều rủi ro, rắc rối.
Những ngày gần đây, dư luận đang xôn xao, tẩy chay bộ phim “Ngôi nhà bươm bướm” của đạo diễn Huỳnh Tuấn Anh do vi phạm bản quyền tác giả. Cụ thể trong phim đã sử dụng bản thu âm ca khúc “Taxi” của ca sĩ Thu Minh và “Mãi mãi bên nhau” của ca sĩ Noo Phước Thịnh nhưng chỉ xin phép tác giả ca khúc thông qua Trung tâm bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt Nam (VCPMC) mà đã không xin phép và không có sự đồng ý của ca sĩ và nhạc sĩ sở hữu tác phẩm. Hành động này của nhà sản xuất phim “Ngôi nhà bươm bướm” đã vi phạm quy định về quyền liên quan trong phần quyền tác giả của Luật Sở hữu trí tuệ. Quyền liên quan trong phần quyền tác giả theo Luật Sở hữu trí tuệ là “quyền của tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa”.
Trong phim “Ngôi nhà bươm bướm”, các nhân vật là nghệ sĩ drag-queen nên phải hát nhép trên nền bản thu. Như vậy, các bản thu đã sử dụng trong phim được xác định là loại hình bản ghi âm trong quyền liên quan. Mà chủ thể có quyền là ca sĩ và nhà sản xuất âm nhạc chứ không phải quyền tác giả ca khúc. Thay vì liên hệ các ca sĩ và nhà sản xuất âm nhạc để mua quyền sử dụng các bản thu. Thì nhà sản xuất phim lại đến VCPMC để mua quyền tác giả. Vấn đề đặt ra có phải nhận thức pháp luật về sở hữu trí tuệ của người trong cuộc còn nhiều hạn chế hay cố tình lảng tránh vì lợi ích riêng?

Theo Luật sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi bổ sung năm 2009 thì quyền sở hữu trí tuệ là quyền của các tổ chức, cá nhân đối với những sản phẩm sáng tạo bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả. Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu. Quyền liên quan là quyền của tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa. Như vậy, khi sử dụng tác phẩm phải xin phép tác giả và cả người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình tác phẩm trừ các trường hợp sử dụng tác phẩm không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao bao gồm:
– Tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học của cá nhân;Tự sao chép một bản nhằm mục đích giảng dạy, trừ trường hợp cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng đã được công bố để giảng dạy;
– Trích dẫn hợp lý nhằm mục đích cung cấp thông tin;
– Tổ chức phát sóng tự làm bản sao tạm thời để phát sóng khi được hưởng quyền phát sóng.
Hoặc các trường hợp sử dụng quyền liên quan không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao như:
– Tổ chức, cá nhân sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp bản ghi âm, ghi hình đã công bố nhằm mục đích thương mại để phát sóng có tài trợ, quảng cáo hoặc thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào.
– Tổ chức, cá nhân sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp bản ghi âm, ghi hình đã công bố trong hoạt động kinh doanh, thương mại không phải xin phép những phải trả tiền nhuận bút, thù lao theo thỏa thuận.

Trước khi sử dụng bài hát làm nhạc phim cần tìm hiểu kỹ các quy định về quyền tác giả và quyền liên quan. Những trường hợp sử dụng quyền tác giả đối với các tác phẩm âm nhạc cần xin phép tác giả, đồng tác giả, những người sáng tạo ra tác phẩm theo khoản 3 Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi bổ sung 2009: “Tổ chức, cá nhân khi khai thác, sử dụng một, một số hoặc toàn bộ các quyền quy định tại khoản 1 Điều này và khoản 3 Điều 19 của Luật này phải xin phép và trả tiền nhuận bút, thù lao, các quyền lợi vật chất khác cho chủ sở hữu quyền tác giả”.
Cũng tại khoản 1 Điều 20 quyền tài sản bao gồm các quyền sau:
– Làm tác phẩm phái sinh;
– Biểu diễn tác phẩm trước công chúng;
– Sao chép tác phẩm;
– Phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm;
– Truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác;
– Cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính.
Các quyền quy đinh ở đây đều thuộc về độc quyền chủ sở hữu tác phẩm nên sử dụng tác phẩm cần có sự đồng ý của tác giả, đồng tác giả,.. Hay đối với các tác phẩm sử dụng thông qua bản ghi âm, ghi hình, ngoài việc xin phép tác giả theo khoản 3 Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ, cũng cân lưu ý đến sự cho phép của người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình quy định tại Điều 29, 30 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi bổ sung 2009.
Trên thực tế, đôi khi các sản phẩm âm nhạc làm với mục đích phi thương các tác giả thường không quan tâm nhiều. Nhưng một khi sản phẩm đó trở nên thành công, mang lại lợi ích về kinh tế, danh tiếng cho người thực hiện sản phẩm đó. Lúc này tác giả hoặc bên sở hữu bản quyền có quyền yêu cầu bạn chi trả các lợi ích từ sản phẩm phái sinh đó. Nếu cần thiết, họ có quyền yêu cầu bạn tháo bỏ, thu hồi các sản phẩm đó và không cấp quyền sử dụng cho bạn vì sự thiếu tôn trọng các quyền của tác giả.
Do đó để hạn chế các rủi ro pháp lý và thể hiện được sự văn minh, tôn trọng tác giả, những người nghệ sĩ đang hoạt động trong lĩnh vực âm nhạc, cần hiểu đúng và thực hiện đúng các quy định của pháp luật về các vấn đề liên quan đến quyền sở hữu, quyền liên quan đến các tác phẩm âm nhạc hay còn gọi là bản quyền âm nhạc.